some quotes....

I just want to tell you, I'm the one who was supposed to take care of everything. I'm the one who was supposed to make everything okay for everybody. It just didn't work out like that. And I left. I left you... And now, I'm an old broken down piece of meat... and I'm alone. And I deserve to be all alone. I just don't want you to hate me.

-Randy 'The Ram' Robinson, The Wrestler

Affichage des articles dont le libellé est 2003 film. Afficher tous les articles
Affichage des articles dont le libellé est 2003 film. Afficher tous les articles

mercredi 28 novembre 2018

The Dreamers (2003) (revised review)


Một review cũ viết lại nhân đạo diễn Bernardo Bertolucci vừa qua đời. 


Luôn được coi là một trong những quốc gia hàng đầu thế giới về nghệ thuật thứ bảy, nước Ý là cái nôi sản sinh ra nhiều đạo diễn danh tiếng như Federico Fellini, Michelangelo Antonioni, Roberto Rossellini, hay Vittorio De Sica. Các bộ phim Ý đã giành tới 14 giải Oscar cho phim nói tiếng nước ngoài hay nhất, rất nhiều các nghệ sĩ của Ý cũng đã thành danh tại Hollywood và quốc tế như đạo diễn Sergio Leone, nữ diễn viên Sophia Loren, hay nhà soạn nhạc Ennio Morricone. Nhưng tính cho tới năm 2018, chỉ có duy nhất một đạo diễn người Ý từng giành giải Oscar cho đạo diễn xuất sắc nhất - Bernardo Bertolucci với bộ phim Hoàng đế cuối cùng (The Last Emperor, 1987). Cũng là bộ phim duy nhất do Ý đầu tư từng giành giải Oscar cho phim hay nhất, Hoàng đế cuối cùng là khúc ca bi tráng về cuộc đời đầy biến động của Phổ Nghi – hoàng đế cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc. Bên cạnh Hoàng đế cuối cùng, Bernardo Bertolucci còn có rất nhiều tác phẩm đáng nhớ trong sự nghiệp kéo dài hơn nửa thế kỷ của ông như Il conformista (1970), Last Tango in Paris (1972), hay 1900 (1976). Nhưng trong suốt gần hai thập niên cuối cùng trước khi qua đời vì bệnh ung thư phổi vào ngày 26 tháng 11 năm 2018 vừa qua, Bertolucci chỉ đem đến cho công chúng ba phim điện ảnh dài – Besieged (1998), The Dreamers (2003), và Me and You (2012). Trong số này thì có lẽ chỉ duy có The Dreamers là thực sự gây được nhiều tiếng vang vì những dấu ấn nghệ thuật đặc trưng cho vị đạo diễn người Ý ở buổi chiều tà của sự nghiệp.

The Dreamers (Những kẻ mộng mơ) là câu truyện tuổi mới lớn của hai anh em sinh đôi người Paris Isabelle (Eva Green), Théo (Louis Garrel) và Matthew (Michael Pitt), một thanh niên gốc California. Bộ ba Isabelle, Théo, và Matthew làm quen với nhau trong những ngày tháng Paris rực lửa vì hoạt động chống chính quyền của học sinh, sinh viên Pháp tham gia phong trào tháng Năm năm 1968. Vốn chẳng hào hứng với chính trị hay cách mạng, bộ ba tìm cách chạy trốn thực tại hỗn loạn bên ngoài bằng việc ẩn mình trong căn nhà của bố mẹ Théo, Isabelle để cùng nhau chìm đắm trong những suy nghĩ xa vời về triết học, âm nhạc, điện ảnh. Được sống giữa cái nôi văn hoá của thế giới, vừa đủ lớn để phần nào nắm được tinh thần tự do, giải phóng trong những tuyệt phẩm văn học, nghệ thuật vốn đang nở rộ trong thập niên 1960, và cũng vẫn đủ trẻ để chưa bị vướng bận bởi những suy nghĩ thực dụng về tiền bạc, về chính trị, Isabelle, Théo, và đặc biệt là Matthew đã có những ngày tháng đẹp đẽ nhất trong cuộc đời để khám phá bản thân, và cũng để nhận ra rằng rồi một ngày gần đây thôi, “những kẻ mộng mơ” cũng sẽ phải đối diện với sự thật khắc nghiệt để sống một cách thực sự thay vì chỉ dừng lại ở những giấc mơ nghệ thuật dang dở. 

The Dreamers là một phim hiếm hoi đề cập đến thế hệ trẻ của Pháp trong giai đoạn “Mai 68” (tháng Năm năm 1968). Đây là một giai đoạn lịch sử đặc biệt của nước Pháp khi mà xung đột về ý thức hệ giữa lớp sinh viên cánh tả và giới cầm quyền, đứng đầu là Charles De Gaulle – anh hùng nước Pháp trong Chiến tranh thế giới thứ hai nhưng lại là chính trị gia mang quan điểm thiên hữu, lên đến cực điểm. Vốn là một dân tộc có dòng máu cách mạnh chảy trong huyết quản, lại sống trong một đất nước lấy Tự do (liberté) làm phương châm sống đầu tiên, người Pháp, nhất là sinh viên Pháp luôn sẵn sàng đứng lên chống đối bất cứ chính sách nào của chính phủ bị họ coi là sai trái. Cộng thêm những ảnh hưởng của Cách mạng Văn hóa Trung Quốc và phong trào phản chiến chống Chiến tranh Việt Nam, phong trào biểu tình của sinh viên và thanh niên Pháp lên cao vào năm 1968 mà đỉnh điểm là tháng Năm – Mai 68. Nhưng cũng như nhiều cuộc “cách mạng nông nổi” khác, các cuộc biểu tình này cũng chẳng đi đến đâu, nước Pháp vẫn vậy, người dân Pháp vẫn vậy, chỉ có Đại học Paris (Université de Paris) bị giới cầm quyền Pháp chia nhỏ thành nhiều đại học nhỏ (nay là 13 đại học đánh số từ 1 đến 13) vì sợ sinh viên sẽ lại xách động một lần nữa.

Mặc dù giành tới hai giải thưởng Oscar cho The Last Emperor (cho hạng mục Đạo diễn xuất sắc nhất và Kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất) vào năm 1988, nhưng tuổi ba mươi vào những năm 1970 có lẽ mới là giai đoạn đỉnh cao nhất trong sự nghiệp của Bernardo Bertolucci khi ông liên tiếp cho ra đời những tuyệt phẩm như Il conformista (1970), 1900 (1976), và đặc biệt là Last Tango in Paris (1972). Để có được cái tuổi 30 đầy đột phá ấy, Bernardo Bertolucci đã dành cả tuổi hai mươi để học hỏi, để sống, để trải nghiệm. Và đúng như tuyên bố của Bernardo Bertolucci, The Dreamers được làm ra để nói về tuổi trẻ của chính đạo diễn, người cũng trải qua cái tuổi hai mươi vào thời điểm những năm 1968 với niềm yêu thích điên cuồng nhạc rock và điện ảnh-đặc biệt là điện ảnh Làn sóng mới (Nouvelle Vague) của Pháp. Với nhạc nền là những bản rock của Jimi Hendrix, Jannis Joplin hay những khúc ca trữ tình Pháp phố biến thời thập niên 1960 của Charles Trenet và Françoise Hardy, The Dreamers có rất nhiều chi tiết, câu thoại, đoạn nhạc nhắc nhớ đến các bộ phim kinh điển, đặc biệt là các phim của thế hệ Làn sóng mới Pháp như A bout de souffre hay Les 400 coups. Đặc biệt có những trường đoạn Bertolucci cho quay lại y hệt những cảnh phim Làn sóng mới kinh điển như cảnh bộ ba Théo, Isabelle, Matthew chạy trong hành lang Bảo tàng Louvre. Tuy đã có nhiều bộ phim Pháp làm về giai đoạn “Mai 68” nhưng có lẽ hiếm có tác phẩm nào lại vừa thành công trong việc khắc họa sống động hình ảnh thanh niên Pháp những năm 1960, vừa mang đậm hơi thở của điện ảnh Pháp giai đoạn Làn sóng mới như The Dreamers. Hơn thế nữa, chứng kiến cái cách Matthew chìm sâu trong hơi thở nghệ thuật của Paris và những làn sóng tình cảm dạt dào của anh em Théo và Isabelle, có lẽ người xem cũng cảm nhận được phần nào hình ảnh của Bertolucci trong những năm tháng ông còn đang loay hoay tìm cho mình một chỗ đứng, một lẽ sống với nghệ thuật điện ảnh.

Một trong những khía cạnh gây tranh cãi nhất của The Dreamers là việc bộ phim có rất nhiều cảnh đặc tả Isabelle khoả thân và cảnh sinh hoạt tình dục giữa bộ ba Isabelle, Théo, và Matthew. Cũng như một tuyệt phẩm khác của Bernardo Bertolucci là Last Tango in Paris, bản gốc của The Dreamers bị gắn mác NC-17 – phim cấm khán giả dưới 17 tuổi vì những cảnh quay “nhạy cảm” dạng này và bộ phim vấp phải rất nhiều lời chỉ trích của những người cho rằng các cảnh quay khoả thân hay sinh hoạt tình dục chỉ làm bộ phim trở nên phản cảm trong mắt công chúng. Nhưng trong việc sản xuất một tác phẩm điện ảnh, bất cứ cảnh quay nào được giới thiệu đến người xem cũng là một lựa chọn nghệ thuật mang dấu ấn riêng của người đạo diễn. Và với cá nhân Bernardo Bertolucci, dù là Last Tango in Paris hay The Dreamers thì các cảnh quay khoả thân, hay sinh hoạt tình dục đều được thực hiện một cách hết sức trân trọng với những góc máy đẹp đẽ, nhạy cảm. Với riêng The Dreamers, những cảnh quay “nhạy cảm” khi được đặt vào bối cảnh chung của phim đều trở nên bình thường nhưng  hết sức cần thiết vì khi chứng kiến những phân đoạn đầy cảm xúc ấy, khán giả không hề cảm thấy có sự thô lậu, kích động ẩn dấu sau những hình ảnh rất đẹp về những người trẻ như Isabelle, như Théo, như Matthew. Những đường cong của Isabelle, những nụ hôn của cô dành cho Matthew – một chàng trai có vẻ đẹp tuổi đôi mươi không hề thua kém cô bạn người Pháp, hay những ánh mắt thương mến của ba người dành cho nhau trong những cảnh quay thân mật cả về mặt thể xác và tinh thần ấy chỉ làm nổi bật hơn những suy nghĩ trong trắng và ngơ ngác của cả bộ ba trước thời cuộc hỗn loạn. Trong ba người thì Matthew mang khuôn mặt ngây thơ nhất và anh cũng xa lạ nhất với thời cuộc với tư cách một người Mỹ không biết tiếng Pháp sống ở Paris mà không hề có bạn bè bản địa. Tuy nhiên chính Matthew lại nhanh chóng nhận ra nhất sự khắc nghiệt của cuộc sống bên ngoài, nhận ra rằng anh cùng hai người bạn chỉ là những kẻ ngờ ngệch đến xơ xác khi mà mồm thì luôn miệng triết học, điện ảnh, âm nhạc nhưng lại hoàn toàn xa lạ với cuộc sống. Vì thế mà Matthew muốn thoát ra khỏi cái ảo ảnh mà bộ ba tự tạo, anh cũng muốn kéo cả hai người bạn mình ra đối mặt với cuộc sống, để rồi nhận ra cái mong muốn của mình chỉ là mong muốn của một “kẻ mộng mơ” - “dreamer” - một hy vọng trong vô vọng về việc “cải tạo” hai con người mộng mơ thực sự, đưa họ trở lại với mặt đất. 

Tuy có một cái tứ rất hay về mâu thuẫn giữa tâm hồn mộng mơ và thực tại khắc nghiệt của những người trẻ, nhưng The Dreamers chưa hẳn đã là một bộ phim hoàn hảo về mặt cảm xúc như Last Tango in Paris. Dường như Bertolucci quá chú ý vào từng chi tiết, vào từng phân đoạn riêng lẻ mà lỏng tay với toàn cục, bởi vậy người xem có thể cảm thấy xúc động trước những cảnh quay riêng rẽ nhưng sau khi kết thúc bộ phim, mạch cảm xúc không còn đọng lại nhiều ngoài cặp mắt sâu thẳm buồn đến ngơ ngác của Isabelle ở cuối phim. Nhưng dù có thích The Dreamers hay không thì chẳng ai có thể phủ nhận rằng Eva Green chính là diễn viên nhập vai tốt nhất, không chỉ vì vẻ đẹp khác lạ và lôi quấn hay diễn xuất táo bạo mà còn bởi cô đã biến Isabelle thực sự trở thành một “daydreamer” - cô gái không chỉ xa rời cuộc sống mà còn xa rời ngay cả những cảm xúc bản thân và những người quen thuộc. 

Đã đúng nửa thế kỷ kể từ ngày “Mai 68” làm xáo trộn cuộc sống của người Paris và nước Pháp. Đã tròn ba thập niên kể từ ngày Bernardo Bertolucci được trao hai tượng vàng Oscar cao quý cho Hoàng đế cuối cùng. Bản thân đạo diễn người Ý cũng đã vừa từ biệt cuộc đời mà ông hết mực yêu quý vì căn bệnh ung thư phổi. Nhưng tuổi trẻ của ông, tuổi trẻ của những con người từng sống qua những ngày tháng của “Mai 68”, của điện ảnh Làn sóng mới sẽ vẫn còn lắng động trong lòng khán giả nhờ vào ánh mắt rất sâu, rất tình tứ của Eva Green trong vai cô gái mộng mơ Isabelle, nhờ vào The Dreamers – tác phẩm xuất sắc cuối cùng trong sự nghiệp của một đạo diễn huyền thoại.

=======

mardi 18 mai 2010

Law Abiding Citizen (2009), Surrogates (2009), Phone Booth (2003), Bad Lieutenant: Port of Call New Orleans (2009)


Phim này có trailer rất hay, ý tưởng hấp dẫn, 2 diễn viên chính đầy vẻ "cool" và cháy nổ hành động ầm ầm. Vậy nên tôi không hiểu sao phim này lại kém ăn khách đến thế, hình như chỉ vừa đủ thu hồi vốn (tiền làm phim + quảng cáo), giờ xem thì mới biết là phim này cũng "mắc bệnh" giống The Score, nghĩa là ... cái gì hay nhất thì phô hết lên trailer rồi.

Cuộc sống hạnh phúc của anh kĩ sư hiền lành Shelton cùng vợ và con gái bị đảo lộn hoàn toàn sau khi 2 tên trộm đột nhập vào nhà đâm anh trọng thương và sát hại vợ con Shelton ngay trước mắt anh. Công tố viên phụ trách vụ án là Rice, một luật sư thông minh, có sự nghiệp thành đạt và hiếm khi thua cuộc (= khiến tội phạm bị kết án) trên tòa. Để đảm bảo lý lịch "thành công" của mình, Rice thương lượng để 1 tên trộm đứng ra làm chứng chống lại tên trộm còn lại và vì thế được tha chết (dù chính hắn mới là kẻ ra tay giết người) bất chấp lời cầu xin của Shelton. Phiên tòa kết thúc bằng cái bắt tay "thân mật" giữa tên trộm được tha và Rice, Shelton chứng kiến toàn bộ cảnh đó từ xa, với ánh mắt đã hoàn toàn lạnh lẽo vô cảm, rồi biến mất.

10 năm sau, Shelton quay trở lại, tất nhiên, để trả thù. Ngay đến tên trộm bị kết án tử hình bằng án tiêm thuốc độc cũng không thoát nổi tay Shelton, anh bằng cách nào đó đã khiến gã chết một cách hết sức đau đớn chứ không "nhẹ nhàng" như thủ tục tử hình thông thường. Với tên trộm còn lại, hình phạt của Shelton còn khủng khiếp hơn nhiều lần, gã bị Shelton cắt từng bộ phận trên cơ thể trong trạng thái hoàn toàn tỉnh táo và thậm chí còn phải chính mắt chứng kiến người khác cắt chân, cắt tay, cắt dương vật của mình. Tự tay giết xong hai kẻ gây ra cái chết của vợ con, Shelton sẽ chạy trốn? Không, anh ta thản nhiên để cảnh sát bắt, tống giam với tội danh giết người để từ trong tù thực hiện nốt phần còn lại của kế hoạch - trả thù Rice và cả hệ thống tư pháp của thành phố Philadelphia. Và thật kinh ngạc là Shelton lại tiếp tục thành công, không hiểu bằng cách nào mà từ buồng biệt giam của mình, anh ta lại tiếp tục thành công trong việc cho Rice nếm mùi đau đớn khi phải tận mắt chứng kiến cái chết của từng cộng sự thân tín một. Không dừng lại ở đó, Shelton còn tiến tới giải quyết cả thẩm phán và thị trưởng của thành phố, còn Rice thì vẫn quay cuồng trong mớ manh mối rối tung với hy vọng tìm ra được cách thức mà Shelton thực hiện các vụ án mạng.

Rõ ràng ý tưởng của Law Abiding Citizen là rất hấp dẫn và nửa đầu của phim cũng khai thác khá tốt cái ý tưởng "trong tù gây án" này, khán giả liên tục được giật mình vì những cái chết "trên giời rơi xuống" mà không hiểu bằng cách nào Shelton đã thực hiện được từ trong tù. Tiếc là ở nửa cuối của phim, đặc biệt là phần hạ màn thì lại quá thường, có vẻ như đạo diễn (và biên kịch) của Law Abiding Citizen bị cạn ý tưởng nên sa đà vào những pha hành động không có nhiều ý nghĩa và những câu thoại triết lý nửa mùa của Rice, Shelton và bà thị trưởng (do Viola Davis của Benjamin Button đóng - Obama lên có khác, lãnh đạo Mỹ trên phim giờ ... toàn da đen). Thỉnh thoảng phim thậm chí còn sa vào cliché (giữa Rice với vợ con, Rice và nữ đồng nghiệp,...) là thứ mà tưởng như đã "tuyệt chủng" trong phim hành động Hollywood từ lâu. "Đầu voi đuôi chuột" nên Law Abiding Citizen cuối cùng chỉ ngang hàng với hàng tá phim hành động ra mắt mỗi năm, diễn xuất căng cứng của Jamie Foxx và Gerard Butler tất nhiên chẳng giúp được gì cho chất lượng phim, vì vậy dễ hiểu vì sao phim không ăn khách như vậy.


Phim gì mà nhìn cái poster đã thấy nản, không lôi cuốn được người xem, Bruce Willis trông cũng đã quá mệt mỏi trong vai trò một người hùng hành động.

Surrogates bắt đầu với ý tưởng khá độc đáo, con người do quá lười biếng/sợ hãi với cuộc sống bên ngoài nên dần lệ thuộc vào những surrogate - những người máy thay thế, các surrogate với hình dạng đẹp đẽ, sức mạnh phi thường, trở thành "người chủ" thực sự của xã hội khi mà người chủ của chúng chỉ nằm bẹp trong nhà thỏa mãn với việc điều khiển thông qua máy tính. Vì người máy thì không thể bị "giết", tỉ lệ tội phạm, đặc biệt là án mạng, giảm xuống nhanh chóng và con người có được điều họ mong muốn khi tạo ra surrogate - một xã hội thanh bình. Nhưng một vụ án đã làm thay đổi tất cả vẻ ngoài đẹp đẽ đó - một surrogate bị phá hủy bởi vũ khí bí hiểm đã kéo theo cả cái chết của người điều khiển nó, điều gì sẽ xảy ra nếu như toàn bộ surrogate bị phá hủy theo cách tương tự? Loài người có bị diệt vong? Câu trả lời sẽ nằm trong tay (như thường lệ) Bruce Willis - viên thanh tra duy nhất phát hiện ra sự nguy hiểm của việc dùng surrogate và "chập chững" tự điều tra bằng chính bản thân mình.

Một phim về người máy tất nhiên người xem sẽ chú ý tới đầu tiên là phần kĩ xảo, và kĩ xảo của Surrogates được làm rất tốt, nếu không nói là xuất sắc. Các surrogate được tạo ra trên CGI một cách tinh tế khi chúng vừa thật-hình ảnh thật, cử động thật, lại vừa giả-vẻ ngoài giả tạo để nêu bật được cái chất "người máy" của chúng. Các pha hành động truy đuổi trong phim cũng được làm cực tốt với những pha phi qua mái nhà, nhảy tránh ô tô ấn tượng.

Nhưng tất cả chỉ có vậy, ý tưởng tốt (hóa ra là xuất phát từ một truyện tranh có sẵn) của Surrogates đã trở thành vô giá trị bởi một kịch bản non tay, thiếu hẳn chất kịch tính, căng thẳng cần có của phim hành động. Các câu chuyện vệ tinh của phim như quan hệ giữa Bruce Willis và vợ (do diễn viên dịu dàng nhất cái xứ Hollywood là Rosamund Pike đóng), giữa Willis và cô đồng nghiệp "có vẻ" bí ẩn nhưng cũng lại không được khai thác tới nơi tới chốn dẫn đến những tình huống (và cái chết) rất lãng nhách mà vẫn khiến khán giả chới với vì không biết phim định hướng tới điều gì. Kết quả tất yếu là Surrogates trở thành một blockbuster thất bại cả về thương mại và nghệ thuật của mùa phim hành động năm nay. 2 sao.

Thực ra cốt truyện và ý tưởng của Surrogates hoàn toàn không xạ lạ với người yêu thích phim Nhật vì nó gần như y hệt với Ghost in the Shell, tất nhiên tác phẩm của Mamoru Oshii nằm ở một "level" khác hẳn về cả nội dung, sự sáng tạo và cách dẫn dắt câu truyện. Lẽ ra với số tiền làm Surrogates, Hollywood có thể làm một live action của Ghost in the Shell vì với khả năng CGI siêu việt như đã chứng tỏ trong Surrogates thì tôi tin là Hollywood đủ sức biến những hình ảnh tưởng tượng sáng tạo đến kinh ngạc của Mamoru Oshii trở thành hiện thực. Tất nhiên đó là về hình ảnh, còn nội dung thì là vấn đề khác, nhất là sau khi Hollywood đã tàn phá "thành công" một loạt tác phẩm kinh điển của Nhật như Dragonballs, Blood: The Last Vampire hay Astroboy, oái oăm là tác phẩm mà Hollywood làm lại từ manga/anime Nhật hay nhất lại là một tác phẩm ăn cắp - The Lion King - "phiên bản Disney" của Osamu Tezuka. Có lẽ Nhật nên "thả" cho các "bạn" Mỹ ăn cắp thêm vài tác phẩm nữa chăng.


Phone Booth có ý tưởng khá đơn giản (nhưng hiệu quả), một anh chàng bảnh bao (có vẻ) thông minh nhanh nhậy bị lôi vào trò đùa của một tay sát thủ. "The Voice", bằng khẩu súng bắn tỉa của mình, buộc gã trai bảnh phải bám dính lấy cái bốt điện thoại nếu không muốn bị giết hoặc phải chứng kiến người khác chết dưới tay "The Voice". Tệ hơn nữa, "The Voice" bắt anh chàng khốn khổ phải thú nhận mọi tội lỗi lớn nhỏ của mình với người vợ yêu quý ngay trước con mắt theo dõi của cả triệu người dân New York. Dù đã làm mọi việc theo yêu cầu nhưng gã trai vẫn không thể thoát khỏi sự điều khiển của "The Voice" trong khi xung quanh anh là cảnh sát lăm lăm súng sẵn sàng bắn hạ "kẻ tình nghi" đang ở trong cảnh khóc dở mếu dở.

Người thủ vai anh chàng khốn khổ là Colin Farrell, anh chiếm hầu hết thời lượng diễn xuất của phim (gần tương tự như Tom Hank trong Cast Away), vì thế Phone Booth có thành công hay không là phụ thuộc phần lớn vào Farrell. Thật may là anh chàng chuyên trị phim hành động này (mà tôi vẫn tưởng là "không biết diễn" cho đến khi xem In Bruges) đã hoàn thành tương đối tốt vai diễn, dù rằng nhìn Farrell diễn thì tôi lại nghĩ ngay đến Tom Cruise, cũng dáng vẻ đấy, đôi mắt đấy, cách diễn over đấy, tôi tin là Cruise vào vai này sẽ đạt hơn Farrell nhiều (trùng hợp là vợ của Cruise, Katie Holmes lại đóng vai "bồ nhí" của Farrell trong phim này).

Thực ra Phone Booth không quá hấp dẫn nhưng nhờ đạo diễn (Joel Schumacher "của" Batman & Robin) biết tiết chế thời lượng (phim rất ngắn, 81 phút) và các chi tiết "sến" nên độ giải trí của phim vẫn ở mức tốt (mà không nhảm). Một thành công vừa phải cho Schumacher và Farrell trong một thể loại khó tạo ra sự đột phá nào khác này.


Bad Lieutenant: Port of Call New Orleans kể về quá trình sa ngã của viên trung úy (lieutenant) Terrence McDonagh từ một viên cảnh sát giỏi nghề, có đạo đức trở thành một trung úy tồi (bad lieutenant) vì nghiện ma túy - thứ thuốc giảm đau của McDonagh để chống lại căn bệnh đau lưng hành hạ. Phim này trùng tên với Bad Lieutenant, phim đen (film noir) nổi tiếng năm 1992 của Abel Ferrera, hai phim có điểm tương đồng là cùng nói về sự sa ngã không thể hãm lại được của một viên cảnh sát tốt, nhưng tất cả chỉ có vậy, tuy cùng có màu sắc u ám nhưng Bad Lieutenant: Port of Call New Orleans xem nhẹ nhàng hơn Bad Lieutenant và cách diễn của Nicholas Cage cũng thiên về điên hơn là doomed như Harvey Keitel trong bộ phim năm 1992.

Ngoại trừ diễn xuất khá ấn tượng của Nicholas Cage (vai diễn nghiện ma túy này của Cage rất gần với vai tay nhà văn nghiện rượu mà anh từng đóng cực kì xuất sắc trong Leaving Las Vegas - lâu lắm rồi mới thấy diễn xuất mặt của Cage không bị khô cứng và "lờ đờ" như "thường thấy" trong các phim thương mại) thì Bad Lieutenant không thực sự là một bộ phim ám ảnh người xem như bộ phim năm 1992. Phim có khá nhiều điểm tôi không hiểu, ví dụ hình ảnh cá sấu? hình ảnh con cự đà? phần hạ màn (spoiled!) quá nhẹ nhàng cho cuộc đời McDonagh? ý nghĩa cuối cùng của bộ phim khi mà (spoiled!) không có ai bị trừng phạt? Eva Mendes có một vai gần như y hệt vai cô diễn trong Training Day, cũng là người tình của một viên cảnh sát sa ngã, và diễn xuất của cô thì vẫn nhàn nhạt như vậy. Michael Shannon của Revolutionary Road nhận một vai nhỏ đến bất ngờ trong phim mà không xem bảng cast chắc tôi cũng không nhận ra được sự có mặt của anh. Có lẽ phim sẽ làm hài lòng những người hâm mộ Nicholas Cage và Werner Herzog (như Roger Ebert), và chỉ dừng lại ở đó.

dimanche 18 avril 2010

Runaway Jury (2003), Harry Brown (2009), The Damned United (2009)


Một phim về tòa án chính hiệu theo kiểu 12 Angry Men, cũng nói về một bồi thẩm đoàn (jury) và cách họ đi tới quyết định cuối cùng trong một vụ án liên quan tới ngành công nghiệp súng đạn của Mỹ, nhưng khác là 12 Angry Men đề cập tới đấu tranh nội bộ giữa các bồi thẩm viên (juror) trong khi Runaway Jury đề cập tới sự tác động từ bên ngoài, đúng hơn là từ phe nguyên cáo và phe bị cáo đối với bồi thẩm đoàn để họ đưa ra quyết định có lợi cho mình.

Runaway Jury có nửa đầu phim khá xuất sắc với nhịp phim nhanh, nhiều chi tiết thông minh đậm chất phim tòa án và đặc biệt là diễn xuất ấn tượng của Gene Hackman trong vai Rankin Fitch, chuyên gia cố vấn về bồi thẩm đoàn và là người nhận tiền của bên bị (ngành công nghiệp súng đạn) với nhiệm vụ tác động để bồi thẩm đoàn ra quyết định có lợi cho bên bị. Một Rankin Fitch thông minh, sắc sảo, lạnh lùng và tàn nhẫn được Hackman diễn hết sức thành công với hai cảnh ấn tượng là cảnh Fitch đưa ra nhận xét về các ứng cử viên cho bồi thẩm đoàn và cảnh Fitch cùng Marlee (Rachel Weisz xinh đẹp) ngã giá. Vai Fitch khiến tôi liên tưởng tới vai tay cảnh sát trưởng mà Hackman từng đóng thành công trong Unforgiven. Thật ngạc nhiên là người bạn thân từ ngày mới vào nghề của Hackman, một huyền thoại điện ảnh khác của Hollywood - Dustin Hoffman lại nhận và đóng một vai hết sức mờ nhạt không để lại chút ấn tượng nào - Wendall Rohr, luật sư của bên nguyên. Vai "chính nhất" của phim - Nicholas Easter, bồi thẩm viên và là người có khả năng tác động tới quyết định cuối cùng của bồi thẩm đoàn, được giao cho John Cusack, trông Cusack thông minh, cách diễn của anh cũng tự nhiên và sáng sủa nhưng không hiểu sao vai Easter vẫn không để lại nhiều ấn tượng, có lẽ một phần vì bề ngoài quá hiền lành của Cusack.

Đáng ra Runaway Jury có thể trở thành một phim hay nếu phần kết của phim cũng được làm tốt như phần đầu. Cảnh hạ màn của phim có độ bất ngờ và kịch tính không cao cùng nhịp độ tương đối chậm đã làm phim mất khá nhiều điểm. Xem xong phim có lẽ người ta chỉ nhớ nhất ánh mắt sắc sảo của Hackman khi "lựa chọn" bồi thẩm viên. Tất nhiên đây vẫn là một phim giải trí tốt và là một tác phẩm chắc tay của dòng phim tòa án vốn khó cho ra đời phim xuất sắc này.


Lần đầu tiên được thấy Michael Caine đóng một phim hành động, nhưng hóa ra phong thái của ông cũng không khác nhiều so với The Quiet American. Harry Brown có cốt truyện khá giống với Gran Torino, cũng nói về một "lão già gân" (Harry Brown) quyết định ra tay "hành hiệp" trừ bỏ lũ côn đồ đã gây ra cái chết của người bạn thân thiết của ông cùng nỗi hoảng sợ trong cả khu tập thể nghèo ở ngoại ô London. Nhưng khác với Gran Torino, Harry Brown có không khí căng thẳng, tăm tối và sực mùi bạo lực hơn nhiều, bộ phim rất gần gũi với phong cách phim tội ác của Anh vốn mang màu sắc hiện thực cao độ, vừa tàn bạo, vừa bẩn thỉu với những nhân vật gần gũi với đời thường thay vì type anh hùng, siêu anh hùng như trong phim Hollywood. Tuy nhiên dường như quá chú trọng đến việc mô tả tác động của xã hội hỗn loạn đến từng cá nhân như Brown, nữ thanh tra Frampton (Emily Mortimer) mà phim bỏ lơi mất phần điều tra-hành động đáng ra phải là trọng tâm, vì vậy nội dung Harry Brown trở nên nặng nề, nặng nề trong từng chi tiết, từng nhân vật và càng về cuối càng tăm tối với một phần kết bất ngờ thì ít mà căng thẳng nặng nề thì quá nhiều. Điểm sáng của phim có lẽ là diễn xuất rất tốt của Michael Caine trong vai Harry Brown (dù sao cũng là một vai lạ so với phong cách gần đây của ông) và đặc biệt là của Emily Mortimer trong vai nữ thanh tra Frampton. Tuy hơi vô lý (nữ thanh tra mà yếu đuối thế?!) nhưng thực sự cách diễn của Mortimer đã biến Frampton trở thành con người mỏng manh nhất trong bối cảnh hỗn loạn của vùng ngoại ô London, hình ảnh nữ thanh tra yếu đuối từ hình dáng nhỏ bé cho tới ánh mắt buồn bã và bất lực trước cái ác có lẽ mới là hình ảnh ấn tượng nhất của phim. Một phim noir không tồi nhưng hơi thiếu chất giải trí.


Bộ phim kể về những thăng trầm trong giai đoạn đầu sự nghiệp của Brian Clough - một trong những huấn luyện viên nổi tiếng nhất thế kỷ 20 ở Anh. Phim đã "điện ảnh hóa" khá nhiều chi tiết trong cuộc đời thật của Clough vì vậy nếu ai đã biết về tiểu sử của Clough sẽ bị hẫng khi xem phim (và ngược lại). Phim được xây dựng theo kiểu Frost/Nixon của năm ngoái, vẫn với diễn xuất ấn tượng của Michael Sheen, lần này có thêm sự trợ giúp của một diễn viên rất đáng mến (cả về bề ngoài và diễn xuất) của điện ảnh Anh là Timothy Spall (mà chắc nhiều người chỉ biết tới qua vai diễn "đáng ghét" Peter Pettigrew trong loạt Harry Potter). Phim xem hay theo kiểu The Queen, tức là khiến khán giả có cảm giác như xem một bộ phim tài liệu với những chi tiết gần gũi với đời thường, nhưng nhược điểm của những phim kiểu này là kịch tính ít khi được đẩy lên tối đa, xung đột chủ yếu ẩn phía sau khuôn mặt, cử chỉ của các diễn viên vì vậy khán giả đôi khi sẽ cảm thấy phim bị trùng và thiếu tính giải trí cần thiết. The Damned United được quay đẹp, dù tông màu của phim khá u ám nhưng phong cảnh nước Anh (vốn xù xì như chính thứ bóng đá thô ráp thời thập niên 1970) lên phim vẫn rất ấn tượng và hợp với chủ đề của phim. Hơi tiếc là phim chủ yếu tập trung vào khắc họa tâm trạng của Brian Clough vì vậy những người hâm mộ bóng đá sẽ không được chứng kiến những pha bóng kịch tính, những trận đấu kinh điển vốn là thứ "lẽ ra có thì tốt hơn" trong một phim thể thao thế này.

jeudi 24 décembre 2009

Joyeux Noël ! - Love Actually (2003)


Love Actually có lẽ sẽ còn nhiều năm nữa là bộ phim yêu thích vào mỗi dịp Giáng Sinh và Năm mới. Một tác phẩm giản dị với cách miêu tả tình yêu mộc mạc, đẹp đẽ khiến người ta dễ xích lại gần nhau hơn để thưởng thức những nụ cười của Keira Knightley, giọt nước mắt của Emma Thompson, trình độ ngoại ngữ "hạng quèn" của Colin Firth, vẻ điển trai của Hunt Grant và đương nhiên cả những phút hài hước của "Mr. Bean" Rowan Atkinson. Yes, love actually is all around! (well, not really, đúng ngày hôm nay thì một trong những cặp đôi bền vững nhất của Hollywood trong suốt hai thập kỉ qua, Tim Robbins và Susan Sarandon chính thức tuyên bố chia tay sau 23 năm chung sống)


(những ai muốn tìm cảm giác nhẹ nhàng của Love Actually có thể xem The Boat that Rocked)

lundi 17 août 2009

The Dreamers (2003)


The Dreamers là một phim hiếm hoi đề cập đến thế hệ trẻ của Pháp trong giai đoạn Mai 68 (tháng Năm năm 1968). Đây là một giai đoạn lịch sử đặc biệt của nước Pháp khi mà xung đột về ý thức hệ giữa lớp sinh viên cánh tả và giới cầm quyền, đứng đầu là “thần tượng” Charles De Gaulle, thiên hữu, lên đến cực điểm. Vốn là một dân tộc “yêu” làm cách mạnh sống trong một đất nước lấy Tự do (“liberté”) làm phương châm sống đầu tiên (trong Tự do, Bình đẳng, Bác ái – Liberté, Egalité, Fraternité), người Pháp, nhất là sinh viên Pháp rất “thích” biểu tình chống đối các chính sách của chính phủ. Cộng thêm những ảnh hưởng của Cách mạng Văn hóa Trung Quốc và phong trào phản chiến chống Chiến tranh Việt Nam, phong trào biểu tình của sinh viên và thanh niên Pháp lên cao vào năm 68 mà đỉnh điểm là tháng Năm – Mai 68. Nhưng cũng như nhiều cuộc “cách mạng nông nổi” khác, các cuộc biểu tình này cũng chẳng đi đến đâu, nước Pháp vẫn vậy, người dân Pháp vẫn vậy, chỉ có Đại học Paris (Université de Paris) bị giới cầm quyền Pháp chia nhỏ thành nhiều đại học nhỏ (nay là 13 đại học đánh số từ 1 đến 13) vì sợ sinh viên sẽ lại xách động một lần nữa.

The Dreamers ở Pháp được đặt tên là Innocents (Những đứa trẻ ngây thơ), theo tôi thì cái tên nào cũng hay và phản ảnh được nội dung tác phẩm. Phim nói về bộ ba Isabelle (Eva Green), Théo (Louis Garrel) – hai anh em sinh đôi người Paris và Matthew (Michael Pitt), một thanh niên gốc California. Hai anh em Théo, Isabelle làm quen với Matthew trong những ngày Paris rực lửa để rồi cả ba chạy trốn thực tại hỗn loạn bên ngoài trong căn nhà của bố mẹ Théo, Isabelle và những suy nghĩ xa vời về triết học, âm nhạc, điện ảnh. Đúng như tuyên bố của Bernardo Bertolucci, The Dreamers được làm ra để nói về tuổi trẻ của chính đạo diễn, người cũng trải qua cái tuổi 20 vào thời điểm những năm 68 với niềm yêu thích điên cuồng nhạc rock và điện ảnh-đặc biệt là điện ảnh Làn sóng mới (Nouvelle Vague) của Pháp. Với nhạc nền là những bản rock của Jimi Hendrix, Jannis Joplin hay những bản nhạc trữ tình Pháp phố biến thời thập niên 60 của Charles Trenet, Françoise Hardy (bà này vừa có một cuốn tự truyện rất ăn khách, chứng tỏ người Pháp đến giờ vẫn còn rất yêu nhạc cũ), The Dreamers có rất nhiều chi tiết, câu thoại, đoạn nhạc nhắc nhớ đến các bộ phim kinh điển, đặc biệt là các phim của thế hệ Làn sóng mới Pháp như A bout de souffre hay Les 400 coups. Đặc biệt có những trường đoạn Bertolucci cho quay lại y hệt những cảnh phim Làn sóng mới kinh điển như cảnh bộ ba Théo, Isabelle, Matthew chạy trong hành lang Bảo tàng Louvre.

Nhiều người chỉ trích Bertolucci vì những cảnh khỏa thân và sex trong phim, nhưng theo tôi thì những cảnh đó là hoàn toàn bình thường, cần thiết và được quay rất đẹp, rất chân trọng theo kiểu Bertolucci. Đúng với cái chất “innocent”, những cảnh khỏa thân hoàn toàn hay sex của Théo, Isabelle và Matthew không hề thô lậu, kích động, trái lại những đường cong của Isabelle, những nụ hôn của cô dành cho Matthew (người có cặp môi đẹp không thua gì Green) hay những ánh mắt thương mến của ba người chỉ làm nổi bật hơn những suy nghĩ trong trắng và ngơ ngác của họ trước thời cuộc hỗn loạn. Trong ba người thì Matthew mang khuôn mặt ngây thơ nhất và anh cũng xa lạ nhất với thời cuộc với tư cách một người Mỹ không biết tiếng Pháp sống ở Paris mà không hề có bạn bè bản địa, tuy nhiên chính Matthew lại nhanh chóng nhận ra nhất sự khắc nghiệt của cuộc sống bên ngoài, nhận ra rằng anh cùng hai người bạn chỉ là những kẻ “ignorant” đến xơ xác khi mà mồm thì luôn miệng triết học, điện ảnh, âm nhạc nhưng lại hoàn toàn xa lạ với cuộc sống. Vì thế mà Matthew muốn thoát ra khỏi cái ảo ảnh mà bộ ba tự tạo, anh cũng muốn kéo cả hai người bạn mình ra đối mặt với cuộc sống, để rồi nhận ra cái mong muốn của mình chỉ là mong muốn của một “dreamer” - một hy vọng trong vô vọng về việc “cải tạo” hai “dreamer” thực sự, đưa họ trở lại với mặt đất. Theo tôi đây là một cái tứ hay trải đều từ đầu phim cho tới tận những phút cuối cùng. Tuy nhiên dường như Bertolucci quá chú ý vào chi tiết mà lỏng tay với toàn cục, người xem có thể cảm thấy xúc động trước những trường đoạn lẻ nhưng sau khi kết thúc bộ phim, theo tôi không có nhiều điều đọng lại ngoài cặp mắt sâu thẳm buồn đến ngơ ngác của Isabelle ở cuối phim. Eva Green có lẽ cũng là diễn viên nhập vai tốt nhất, không chỉ vì vẻ đẹp khác lạ và lôi quấn hay diễn xuất táo bạo mà còn bởi cô đã biến Isabelle thực sự trở thành một “daydreamer” - cô gái không chỉ xa rời cuộc sống mà còn xa rời ngay cả những cảm xúc bản thân và những người quen thuộc. Dù sao The Dreamers vẫn là một bộ phim đẹp và đáng xem về một giai đoạn đáng nhớ của lịch sử nước Pháp.

Gegen die Wand (2003)


Sibel là một cô gái Đức gốc Thổ 20 tuổi, cô yêu đời, muốn tận hưởng cuộc sống nhưng bị bó chặt trong khuôn phép hà khắc của một gia đình Thổ, cô tự tử. Cahit (đọc là Cha-ít) là một gã đàn ông Đức gốc Thổ 40 tuổi, góa vợ, sống vật vờ trong một căn hộ tồi tàn bằng nguồn thu nhập ít ỏi từ nghề … thu dọn cốc chén, gã say xỉn và đi tới chỗ tự tử. Hai số phận gặp nhau tại … bệnh viện và Sibel nghĩ ra một “sáng kiến” – đề nghị Cahit làm đám cưới với cô, một đám cưới chỉ trên danh nghĩa nhưng sẽ giúp Sibel thoát khỏi sự kìm kẹp của bố mẹ và anh trai, còn Cahit sẽ chẳng mất gì, trái lại gã sẽ có thêm người nấu ăn và thu dọn nhà cửa. Đám cưới diễn ra tốt đẹp, Cahit tiếp tục say xỉn còn Sibel tìm tới những thú vui cô hằng mơ ước ở sàn nhảy, quán bar. Nhưng “lửa gần rơm lâu ngày cũng bén”, Cahit bắt đầu có tình cảm thực sự với cô vợ hờ còn Sibel bắt đầu có cảm giác ghen tuông khi biết anh chồng hờ đi ngủ với người khác.

Gegen die Wand hay Head-on là một thành công bất ngờ của điện ảnh Đức năm 2003, phim giành hầu hết các giải điện ảnh quan trọng ở Đức như giải Gấu vàng ở Liên hoan phim Berlin, phim hay nhất tại Giải thưởng điện ảnh Đức và phim hay nhất tại Giải thưởng điện ảnh châu Âu. Quả thực Fatih Akin, một đạo diễn trẻ người Đức gốc Thổ, đã cho ra đời một bộ phim hết sức cảm động về tình yêu. Gegen die Wand đề cập tới cả hai khía cạnh của tình yêu đối với số phận con người, nó vừa có thể làm sống lại những tâm hồn tưởng chừng đã khô cạn, hóa đá như của Cahit, nhưng nó cũng có thể khiến con người cư xử điên loạn một cách khó thể tin được. Cặp diễn viên chính của phim, Birol Ünel (thủ vai Cahit) và Sibel Kekilli (thủ vai Sibel) diễn cực kì ăn ý và xuất sắc trong việc lột tả những bộ mặt khác nhau của tình yêu (tous les visages de l’amour), từ hạnh phúc, hy vọng đến đau khổ, tuyệt vọng, điên loạn. Là một phim mang màu sắc buồn, Gegen die Wand có rất nhiều cảnh nặng nề về tâm trạng và số phận con người, người xem trong suốt gần 2 tiếng của phim phải chứng kiến cuộc đấu tranh khó nhọc, nhiều lúc tưởng chừng vô vọng của Sibel và Cahit để tìm lại tình yêu, tìm lại cuộc sống. Mặc dù vậy phim vẫn hấp dẫn và lôi cuốn vì có lẽ chính trong những lúc bị dồn vào chân tường, con người (ở đây là Sibel và Cahit) mới bộc lộ được những tâm sự, suy nghĩ thầm kín và nhân bản nhất.

mardi 7 juillet 2009

Jeux d'enfants (2003)


"Jeux d'enfants" trong tiếng Pháp nghĩa là "Trò chơi con trẻ", phim được dịch ra tiếng Anh khá hay, catchy mà vẫn giữ được phần nào nghĩa gốc, "Love me if you dare". "Jeux d'enfants" là phim đầu tay của Yann Samuell, đạo diễn năm vừa rồi có một phim rất ... dở là "My Sassy Girl" hay "Cô nàng ngổ ngáo" phiên bản làm lại của Hollywood. Nhưng "My Sassy Girl" dở bao nhiêu thì "Jeux d'enfants" lại hay bấy nhiêu. Cũng có đề tài tình yêu sâu sắc và quái chiêu của hai cá tính nổi loạn như "My Sassy Girl", "Jeux d'enfants" kể về tình bạn-tình yêu giữa Julien (Guillaume Carnet) và Sophie (Marion Cotillard) từ lúc họ còn là hai đứa trẻ tới khi họ từ giã cuộc đời. Chính vì quá thân thiết và gần gũi ngay từ khi còn nhỏ, Julien và Sophie ở tuổi trưởng thành đã không thể nào bộc lộ nổi tình yêu tha thiết của họ dành cho nhau, với họ mọi câu nói yêu đương, mọi lời bộc lộ tình cảm đều chỉ là những trò chơi con trẻ. Cứ như thế người xem phải chứng kiến trò chơi đuổi bắt giữa hai người qua một năm rồi qua mười năm để tìm đến với nhau, trong vô vọng. Tuy nhiên cũng như bài hát "La vie en rose" ("Cuộc sống tươi đẹp") vang lên từ đầu tới cuối phim, "Jeux d'enfants" hoàn toàn không hề mang màu sắc u ám, phim tràn đầy những khoảnh khắc tươi vui của tình cảm trong sáng của Sophie và Julien dành cho nhau ngay cả khi họ đã trưởng thành và phải đối mặt với thực tế khắc nghiệt của cuộc sống. Ban đầu khi đọc tiêu đề của phim tôi liên tưởng tới một bài hát buồn của Pháp là "Bang Bang" nhưng sau khi xem xong phim tôi thấy "Jeux d'enfants" có "tông" gần với "Le fabuleux destin d'Amélie Poulain" hơn, cả hai bộ phim đều sử dụng gam màu ấm, cùng có những cảnh tưởng tượng kiểu trẻ con và nhất là đều mô tả tình yêu rất đẹp và xúc động. Một điểm giống nữa của "Jeux d'enfants" và "Amélie" đó là cặp diễn viên chính, cả Marion Cotillard và Audrey Tautou đều là những ngôi sao sáng của điện ảnh Pháp kể từ cuối thập niên 90, cả Guillaume Carnet và Mathieu Kassovitz đều là những diễn viên trẻ triển vọng rồi trở thành đạo diễn tài năng mới của Pháp (Carnet giành César Đạo diễn xuất sắc nhất năm 33 tuổi với "Ne le dis à personne" còn Kassovitz giành giải Đạo diễn xuất sắc nhất tại Cannes năm 28 tuổi với "La Haine"). Và đương nhiên, những ai đã từng thích "Amélie" chắc chắn sẽ hài lòng với "Jeux d'enfants".

mardi 16 juin 2009

Cold Mountain (2003)


Nhạc hay, phong cảnh hữu tình, trường đoạn chiến tranh khá ấn tượng, nhưng nội dung và diễn xuất thì ... không đỡ được ! Sau phim này mình chính thức chấm dứt mối tình với Nicole Kidman

Bạn nào muốn xem phim này thì mình recommend cho 1 phim kiểu kiểu tương tự, cùng đạo diễn, nhưng hay gấp n lần, đấy là The English Patient.

mercredi 13 mai 2009

Elephant (2003)

Phim này hay nhất trong số mấy phim xem thời gian gần đây. Phim rất ngắn (chỉ có 81 phút - độ dài thông thường của phim thương mại là 100-120 phút) nhưng xem rất nặng nề, vì nó nói về một vụ thảm sát học đường. Phần lớn bộ phim là hình ảnh cuộc sống học đường của nhiều nhân vật khác nhau. Gus Van Sant thực hiện những hình ảnh đó chân thực đến mức Elephant ở phần đầu không khác gì một bộ phim tài liệu về trường học, trong đó có những cậu học sinh thích chụp ảnh, những cô học sinh ưa làm đỏm, những nụ hôn học trò,... tức là một cuộc sống tràn ngập màu sắc. Thi thoảng đây đó người ta lại nghe thấy tiếng đàn, Xô-nát Ánh Trăng và Thư gửi Elise. Đó là hai bản nhạc yêu thích của ... thủ phạm vụ thảm sát, một cậu bé thông minh, chơi piano rất hay và thỉnh thoảng bị bạn bè bắt nạt ở trường. Cũng chính con người đó, ngón đàn đó, chỉ ít phút sau đã bình tĩnh ngắm bắn thẳng vào những người bạn đồng lứa của mình. Tại sao? Câu hỏi nhức nhối mà bộ phim bỏ lại cho người xem, cũng là câu hỏi mà nước Mỹ không bao giờ có thể trả lời. Nói tóm lại đây là một phim học đường quá hay, quá sâu sắc và ý nghĩa, nó xứng đáng với giải Cành cọ vàng giành được, và nó cũng xứng đáng hơn nhiều cái điểm 7.3 trên IMDb.