Ở vào cái tuổi xế chiều, thay vì quây quần bên con cháu, ông giáo dạy nhạc
Winfried Conradi (Peter Simonischek) sống cô đơn trong căn nhà bừa bộn bên chú
chó già Willi và trái tim bệnh tật. Ly dị vợ, con gái luôn bận bịu công việc ở
nước ngoài, không còn nhiều học trò đến học đàn, ông lão Winfried chỉ còn niềm
vui duy nhất là lắp bộ hàm vẩu ông luôn thủ sẵn trong túi để chọc cười mọi người
bằng những câu nói đùa chẳng ai hưởng ứng. Một sáng thức giấc giữa khu vườn cạnh
nhà, Winfried phát hiện ra chú chó Willi ông hết mực yêu quý đã qua đời. Bên
mình chẳng còn ai, Winfried quyết định xách vali từ Đức sang Rumani thăm cô con
gái Ines (Sandra Hüller) đang làm tư vấn tại Bucharest. Chuyến thăm đường đột của
ông bố đã đặt Ines vào tình huống khó xử khi cô đang phải đau đầu giải quyết
yêu cầu của vị khách hàng khó tính Henneberg (Michael Wittenborn) trong việc
tái cơ cấu và sa thải công nhân người Rumani khỏi các dự án khai thác dầu mỏ ở
quốc gia kém phát triển bậc nhất châu Âu này. Về phần mình, Winfriend không chỉ
khám phá ra một đất nước Rumani của sự phân cách đến cùng cực giữa người giàu
và người nghèo, ông còn chợt nhận ra rằng cuộc sống của cô con gái yêu Ines thực
ra chẳng hạnh phúc hơn cuộc đời cô đơn của ông là bao khi cô phải sống giữa một
thành phố xa lạ trong áp lực thường trực của công việc và sự thờ ơ của những
người “bạn” vốn chỉ có thể chia sẻ với Ines những câu chuyện phiếm bên bàn rượu.
Quyết tâm thay đổi cuộc sống ảm đạm của con gái, Winfried lắp bộ hàm vẩu quen
thuộc và mái tóc giả bù xù để biến mình thành “chuyên gia khai vấn cách sống”
Toni Erdmann – người luôn theo bám Ines mọi nơi, mọi lúc với những trò đùa vô
duyên đúng chất Winfried. Nhưng càng cố gắng bao nhiêu thì Winfried/Toni
Erdmann càng chỉ làm lnes thêm căng thẳng và tức giận vì sự vụng về của ông bố
và khoảng cách quá lớn về tuổi tác, suy nghĩ, và cách sống giữa hai bố con. Thứ
duy nhất còn giữ hai người lại gần nhau là tình cảm bố con và những mảnh vụn ký
ức về gia đình nhà Conradi, nhưng liệu thế có là đủ để Winfried níu kéo lại người
thân duy nhất trong cuộc đời ông và để Ines thoát khỏi vực thẳm của công việc
và cuộc sống đoạ đầy ở Bucharest?
Toni Erdmann của nữ đạo diễn người Đức Maren Ade là một trong những tác
phẩm điện ảnh được đánh giá cao nhất của điện ảnh châu Âu năm 2016, và ngắn gọn
mà nói thì bộ phim hoàn toàn xứng đáng với vô số giải thưởng và đề cử trong mùa
giải thưởng điện ảnh 2016-2017. Được lấy cảm hứng từ chính người bố của đạo diễn
Ade, bộ phim bi-hài kịch của Đức này thực sự là đại diện cho xã hội hiện đại
châu Âu nói chung, trong thời điểm vị trí của gia đình cũng như các giá trị
truyền thống như tình bạn, tình yêu đang dần phai nhoà trước sức ép của công việc,
tham vọng thăng tiến, và những nhu cầu vật chất của cuộc sống gấp gáp thế kỷ
21. Bối cảnh chính của Toni Erdmann – thủ đô Bucharest của Rumani là nơi khán
giả có thể chứng kiến rõ ràng sự đối đầu giữa cái cũ và cái mới ấy, bởi ở đó
các toà nhà chung cư sang trọng tồn tại song song cùng những khu ổ chuột nhếch
nhác bẩn thỉu, bởi ở đó người ngoại quốc giàu có như Ines hoàn toàn có thể sống
một cách thoải mái sung túc bên cạnh những người Rumani nhân hậu nhưng nghèo
khó và luôn phải đối mặt với nguy cơ mất việc. Điểm khác biệt của kịch bản Toni Erdmann là việc Maren Ade không hề tận dụng bối cảnh giàu kịch tính này
của bộ phim để đẩy nhanh nhịp phim bằng những bi kịch hay số phận khác biệt,
trái lại xuyên suốt bộ phim, Ade lại lựa chọn cho tác phẩm của mình nhịp phim
tương đối chậm rãi để các nhân vật của bà có cơ hội bộc lộ dần dần những góc
khuất bên trong con người họ. Bởi thế mà khi xem đến hết phim, chắc chắn người
xem sẽ có một cái nhìn khác hẳn về từng nhân vật trong phim, từ cha con nhà
Conradi cho tới những nhân vật phụ tưởng chừng chẳng có nhiều tiếng nói như cô
trợ lý người địa phương Anca (Ingrid Bisu) của Ines. Tuy có nhịp phim chậm và
thời lượng khá dài tới 162 phút, nhưng Toni Erdmann vẫn hết sức cuốn hút nhờ
sự cân bằng giữa bi kịch và xung đột của các nhân vật với những chi tiết hài hước
đến từ Winfried/Toni Erdmann và sự tương tác của ông với những con người Rumani
chân thành, nhân hậu. Maren Ade thực sự là ngôi sao sáng nhất của Toni
Erdmann khi bà không chỉ xây dựng được một bộ phim có kết cấu chắc chắn, dễ hiểu
với tuyến nhân vật đặc sắc, bà còn đưa vào tác phẩm nhiều lớp lang này những
chi tiết biểu tượng và các thông điệp ngầm về triết lý sống mà nếu không chú ý,
khán giả sẽ dễ dàng bỏ qua.
Với một kịch bản pha trộn cả chất bi và hài như Toni Erdmann, dàn diễn viên
chính của phim có trách nhiệm rất lớn trong việc giữ cho mạch phim không bị đứt
đoạn bởi những pha hài quá lố hay sự uỷ mị không cần thiết. Peter Simonischek
trong vai quan trọng nhất của phim Winfried/Toni Erdmann đã hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ này khi sự vụng về và vẻ ngoài luộm thuộm của ông dễ dàng làm người
xem phải phì cười, nhưng họ cũng hoàn toàn có thể cảm nhận được nỗi buồn và nỗi
cô đơn sâu thẳm ẩn giấu bên trong ông lão to lớn, kiệm lời này. Không hề kém cạnh
Simonischek, Sandra Hüller cũng hết sức thành công trong một vai diễn đòi hỏi sự
kiềm chế rất lớn về mặt cảm xúc như Ines Corandi. Tuy có vẻ ngoài hiện đại và
tác phong hết sức năng động, nhưng Hüller đem lại cho khán giả một cảm giác bất
an về một quả bom tinh thần nổ chậm bên trong Ines – một cảm giác hoàn toàn
trái ngược với sự vững chắc, bình thản có được từ ông giáo già Winfried “chẳng
có tham vọng gì với cuộc sống”. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa Simonischek và
Hüller, đặc biệt trong nửa cuối của phim, thực sự đã biến Toni Erdmann trở
thành một bức tranh chân thực về quan hệ gia đình trong xã hội hiện đại mà hẳn
nhiều người xem sẽ phải giật mình khi so sánh bức tranh đó với cuộc sống của
chính họ.
Một trong những phân đoạn đáng nhớ nhất của Toni Erdmann là khi Winfried
đệm đàn để Ines hát ca khúc nổi tiếng của nữ danh ca Whitney Houston Greatest
Love Of All. Không sở hữu một giọng hát quá xuất sắc, nhưng Ines vẫn khiến các
khán giả bất đắc dĩ của cô phải trầm trồ vì tiếng hát buồn bã như xuất phát từ
sâu thẳm tâm can của cô. Cô lặng lẽ bỏ ra ngoài sau khi kết thúc câu cuối cùng
của bài hát – “And if, by chance, that special place. That you've been dreaming
of. Leads you to a lonely place. Find your strength in love” (“Nếu như chẳng
may giấc mơ của bạn lại dẫn tới một nơi trốn cô đơn, hãy tìm thấy sức mạnh
trong tình yêu”). Có lẽ đó cũng là thông điệp của Toni Erdmann dành cho con
gái, dành cho khán giả - cuộc sống chẳng hề dễ dàng, nhưng ít nhất hãy cố tìm lấy
cho mình chút niềm vui, hay tình yêu nào từ đó. Không có nhân vật “chính diện”
hay “phản diện”, cũng chẳng cố gắng áp đặt một bài học cuộc sống nhất định nào
đó cho người xem, nhưng cách tiếp cận nhẹ nhàng và nhân văn của Maren Ade đối với
một đề tài gai góc, khó nhằn như sự tan vỡ của mô hình gia đình truyền thống và
cuộc tìm kiếm trong tuyệt vọng niềm vui cuộc sống đã giúp “Toni Erdmann” vừa
tránh được lối mòn giáo điều của nhiều bộ phim bi kịch lấy bối cảnh cuộc sống
hiện đại, vừa giúp khán giả tĩnh tâm, bình thản hơn khi nhìn lại cuộc sống của
chính họ.
====
Bản đã biên tập trên Zing.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire